Ảnh hưởng lên thể loại khác Grindcore

Ban nhạc noise rock Nhật Bản Boredoms vay mượn những yếu tố của grind,[3][61] nhóm cũng lưu diễn với Brutal Truth năm 1993.[62] Ban nhạc Gore Beyond Necropsy từ Nhật Bản thành lập năm 1989, hợp tác với nghệ sĩ nhạc noise Merzbow.[63] Naked City, dẫn đầu bởi nghệ sĩ saxophone John Zorn, biểu diễn một dạng nhạc jazz ảnh hưởng bởi grindcore.[64][65] Zorn sau đó thành lập dự án Painkiller với nhà sản xuất ambient dub Bill Laswell chơi guitar bass, Mick Harris chơi trống,[66] và hợp tác với Justin Broadrick trong vài tác phẩm.[67] Thêm vào đó, grindcore là một ảnh hưởng lên phong trào powerviolence của hardcore punk nước Mỹ, và tác động lên vài nét của metalcore. Một số nghệ sĩ sáng tạo một dạng lai giữa grind và nhạc điện tử.

Powerviolence

Bài chi tiết: Powerviolence

Powerviolence là một tiểu thể loại thô ráp và nghịch tai của hardcore punk.[68][69] Phong cách này gần với thrashcore[68] và tương tự grindcore. Powerviolence lấy cảm hứng từ Napalm Death và các ban nhạc grindcore thời kỳ đầu khác, nhưng lại loại bỏ các yếu tố của metal.[70] Nó có tiền đề là nhóm hardcore punk Infest, kết hợp hardcore youth crew với âm nhạc của LärmSiege vào cuối thập niên 1980.[68][69] Tiểu thể loại này được hình thành hoàn chỉnh vào đầu 1990, với những ban nhạc Man Is the Bastard, Crossed Out, No Comment, Capitalist Casualties, và Manpig.[68]

Powerviolence tập trung vào tốc độ, sự ngắn gọn, các đoạn breakdown kỳ quái, và thay đổi nhịp độ liên tục.[68] Các bài powerviolence, giống grindcore, cũng thường rất ngắn; một bài hát ngắn hơn 30 giây là bình thường.[68] Một số nhóm, đặc biệt Man Is the Bastard, lấy ảnh hưởng từ sludge metalnhạc noise.[68][69] Về lời và chủ đề, powerviolence rất thô ráp.[68][69] Man Is the Bastard và Dropdead được truyền cảm hứng từ anarcho-punkcrust punk, nhấn mạnh quyền động vậtchủ nghĩa chống quân phiệt.[69] The Locust[71]Agoraphobic Nosebleed kết hợp powerviolence vào grindcore.[44]

Nhạc điện tử và industrial

Cùng với các ảnh hưởng khác, Napalm Death lấy các đặc điểm của nhạc nhạc industrial.[72] Tay guitar cũ của Napalm Death, Justin Broadrick, tiếp tục sự nghiệp với ban nhạc industrial metal Godflesh.[16] Mick Harris, trong dự án hậu Napalm Death, Scorn, thử nghiệm phong cách này.[73] Scorn cũng viết nhạc industrial hip hop[74]dark ambient.[75] Digital hardcore ban đầu được sinh ra như một con lai giữa hardcore punk và hardcore techno tại Đức.[76] Agoraphobic Nosebleed và the Locust thu hút các nhà sản xuất digital hardcore và noise phối khí lại (remix) nhạc.[77][78] James Plotkin, Dave Witte, và Speedranch tham gia dự án Phantomsmasher, một hỗn hợp grindcore và digital hardcore. Alec Empire hợp tác Justin Broadrick, trên album Curse of the Golden Vampire,[79]Gabe Serbian, của the Locust, khi biểu diễn tại Nhật Bản.[80] Biểu tượng của Japanoise Merzbow cũng tham gia vào Empire/Serbian show.[80]

Thế kỷ 21 chứng kiến sự phát triển của "electrogrind" (hay "cybergrind"),[81][82] bởi The Berzerker, Body Hammer, Gigantic BrainGenghis Tron với các nét vay mượn từ nhạc điện tử.[41] Những nhóm này được xây dựng từ các tác phẩm của Agoraphobic Nosebleed, Enemy Soil và The Locust, cũng như industrial metal.[81]

Metalcore

Bài chi tiết: Metalcore

Metalcore là một thể loại kết hợp extreme metal với hardcore punk.[83] Như grindcore, metalcore sử dụng breakdown.[84] Vài ban nhạc lấy nguồn cảm hứng từ grindcore. Ví dụ các nhóm mathcore[85][86] (The Dillinger Escape Plan,[87] Some Girls,[88]Daughters).[89][90] Những nhóm này còn kết hợp post-hardcore vào âm nhạc.[85] Ngoài metal, screamo thời đầu[91] (Circle Takes the SquareOrchid),[92] cũng liên quan đến grindcore.